Luật sư tư vấn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái pháp luật
Có khá nhiều vấn đề xoay quanh việc chia di sản thừa kế và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp đất đó là tài sản chung của nhiều người mà chỉ cấp cho một người thì sẽ giải quyết thế nào? Luật sư của Công ty Luật Minh Gia xin tư vấn cụ thể trong bài viết dưới đây.
Chào Luật sư Minh Gia, em muốn nhờ luật sư tư vấn cho em và gia đình về trường hợp sau:
Ông bà
ngoại em có 3 người con: mẹ em, cậu em và 1 dì út. Mẹ em học hết cấp 3
thì lập gia đình và ở nhà buôn bán, còn cậu sau khi lập gia đình được ông bà
làm nhà cho ở riêng và sử dụng phần đất đai do ông bà khai phá để sản xuất . Dì
út đau yếu ở cùng với ông bà, không lập gia đình và cũng được ông bà xây nhà
cho ở. Trước khi ông mất vài năm, ông có đưa ra ý kiến với mẹ : nên chia
đều đất cho các con hay giao cho cậu mợ? Thì mẹ đưa ra ý kiến với ông: “ông bà
có 1 mình cậu là con trai nên sau này mọi công việc của ông bà và dì út yếu
đuối đều đến tay cậu nên không phải chia” - đó là ý kiến riêng của mẹ. Nhưng
chưa kịp họp gia đình thì năm 2012 ông ngoại em qua đời không để lại di chúc.
Tuy nhiên từ sau khi ông mất cậu ngày càng tỏ ra bất kính, bất hiếu với bà
ngoại và nhiều lần đe dọa đánh, đuổi dì khỏi ngôi nhà ông bà làm cho dì.
Vì lo cho dì, nên bà ngoại em quyết định cắt 1 phần đất từ số đất đai ông bà
khai phá được để làm sổ đỏ riêng cho dì nhưng cậu em phản đối. Lúc đó mới lộ ra
chuyện cậu đã bí mật làm sổ đỏ, đứng tên đất cả khu đất đó mà không có sự đồng
ý của bà và người trong gia đình. Sau một thời gian rất dài nhờ sự vào cuộc của
chính quyền địa phương: thôn, xã, huyện, bà đã làm được sổ đỏ riêng đứng tên
của dì út. Nhưng hiện nay, bà và dì út muốn bán 1 phần đất (thuộc sở hữu của
dì) để an dưỡng tuổi già thì gặp phải khó khăn: cậu nhờ sự giúp đỡ của công an
thôn lập giả biên bản họp gia đình với nội dung: “cậu cắt đất cho dì để ở khi
nào không ở nữa thì phải trả lại cho cậu mợ, đất không được bán” và giả mạo chữ
kí của bà ngoại và mẹ em. Xin luật sư tư vấn để em và gia đình được hiểu trong
trường hợp liên quan đến thủ
tục mua bán bất động sản này: cậu em đã vi phạm những luật gì? Nếu vi phạm
thì hình thức xử lý như thế nào theo quy định của pháp luật? Quyền lợi
của dì và bà ngoại trong trường hợp trên? Gia đình xin trân trọng cảm ơn!
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn
tới Công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn
như sau:
Thứ nhất, về chia
di sản thừa kế
Khi ông bạn mất
không để lại di chúc nên trong trường hợp này sẽ chia di di sản thừa kế theo
quy định của pháp luật theo Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS)
Vì trong tình
huống bạn đưa ra có nêu rằng mảnh đất trên là do ông bà cùng khai phá. Do đó,
trong trường hợp này thì tài sản để lại thừa kế là tài sản chung của ông bà
bạn.
Căn cứ vào Điều
33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
"Điều 33. Tài
sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung
của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập
hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất
mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường
hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông
qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung
của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia
đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp
không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”
Trong trường hợp
này, thì mảnh đất trên là tài sản chung của ông bà bạn. Nên khi phân chia tài
sản thì về nguyên tắc mảnh đất sẽ chia đôi cho cả hai. Một nửa sẽ thuộc sở hữu
của bà ngoại của bạn, còn nửa còn lại sẽ được đem chia đều cho hàng thừa kế thứ
nhất được quy định tại Điều 651 BLDS 2015. Đây sẽ là tài sản riêng của mỗi
người, mỗi người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình.
“Điều 651. Người
thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa
kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ
nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;
b) Hàng thừa kế thứ
hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ
ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột,
dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa
kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở
hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước
do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ
chối nhận di sản.”
Vì dì bạn thuộc
hàng thừa kế thứ nhất theo quy định nên hoàn toàn có quyền hưởng thừa kế phần
mà ông ngoại bạn để lại. Nếu bà ngoại của bạn muốn cắt một phần đất cho dì hoặc
của dì để làm sổ đỏ là phần đất đấy thuộc quyền sở hữu của bà ngoại hoặc dì bạn
thì trên nguyên tắc của BLDS 2015 chủ sở hữu hoàn toàn có quyền định đoạt đối
với tài sản của mình thì cậu của bạn hoàn toàn không có căn cứ để phản đối
quyết định của bà.
Thứ hai, Về việc
làm sổ đổ mà không có sự đồng ý của những người còn lại
Theo như bạn trình
bày thì cậu bạn đã làm sổ đỏ mảnh đất đứng tên mình mà không có sự đồng ý của
những thành viên khác. Khoản 2 Điều 98 Luật Đất Đai 2013 quy định:
“
Điều 98. Nguyên tắc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất
2. Thửa đất có
nhiều người chung quyền sử dụng đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi đầy đủ tên của những người có chung
quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và
cấp cho mỗi người 01 Giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có
yêu cầu thì cấp chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện.”
Xem xét quy định
trên thì ta thấy rằng vì bà ngoại và các thành viên của gia đình bạn đều có
quyền được hưởng thừa kế đối với mảnh đất nên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trên phải ghi tên đầy đủ các thành viên này. Tuy nhiên, cậu của bạn đã tiến
hành tự ý làm sổ đỏ đứng tên mình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành
viên là sai, trái với quy định. Để bảo vệ quyền lợi cho mình thì các thành viên
còn lại có thể yêu cầu các cơ quan chức năng tiến hành thu hồi lại sổ đỏ đã cấp
cho cậu bạn theo Điều 106 Luật Đất Đai 2013:
“Điều 106. Đính
chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
2. Nhà nước thu hồi
Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
a) Nhà nước thu hồi
toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;
b) Cấp đổi Giấy
chứng nhận đã cấp;
c) Người sử dụng
đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn
liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
d) Giấy chứng nhận
đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện
tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc
thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất
đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật
đất đai.”.
Thứ ba, về vấn đề
giả mạo biên bản họp
Căn cứ vào quyền
tự định đoạt đối với tài sản của mình theo BLDS 2015 thì dì của bạn hoàn toàn
có quyền bán mảnh đất thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác mà không cần
sự cho phép của ai. Vấn đề ở đây là cậu của bạn đã lập biên bản giả mạo họp gia
đình với nội dung không cho phép dì bạn thực hiện giao dịch với mảnh đất của dì
và tự ý giả mạo chữ ký của bà ngoại và dì bạn. Vậy biên bản trên có hiệu lực
hay không?
Giao dịch dân sự
là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều 117 BLDS 2015 quy định về điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự:
“1. Giao dịch dân
sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng
lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được
xác lập;
b) Chủ thể tham gia
giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội
dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội.
2. Hình thức của
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp
luật có quy định.”
Như vậy, trường
hợp trên thì biên bản trên đã vi phạm điều kiện là các bên tham gia phải hoàn
toàn tự nguyện tức là việc ký vào biên bản phải xuất phát từ ý chí của các bên
tham gia. Tuy nhiên, cả bà ngoại và dì của bạn không ai biết về biên bản này và
cậu bạn tự lập và ký vào đấy nên biên bản trên sẽ bị vô hiệu do không tuân thủ
các điều kiện của giao dịch dân sự.
Để được bảo vệ lợi
ích của mình thì dì của bạn có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự
theo Điều 132 BLDS 2015.
Xem thêm: Giải
quyết thế nào khi mua bán, chuyển nhượng đất mà vợ không đồng ý?
Trên đây là nội
dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng
mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số
điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.
Nhận xét
Đăng nhận xét